Chuỗi sản xuất dần rời khỏi Trung Quốc, cơ hội nào cho Việt Nam?
Nếu thương chiến Mỹ - Trung là tác nhân thúc đẩy xu hướng dời chuỗi sản xuất khỏi Trung Quốc thì dịch bệnh COVID-19 đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn. Và đây là cơ hội cho Việt Nam.Ngày 3-5, Nhật Bản công bố chương trình hỗ trợ trị giá 2,2 tỉ USD khuyến khích các doanh nghiệp nội địa dịch chuyển chuỗi sản xuất ra khỏi Trung Quốc về lại Nhật hoặc chuyển sang các nước Đông Nam Á.
Chất xúc tác đại dịch
Giới quan sát nhận định đại dịch COVID-19 đã khiến các quốc gia nhận diện rõ nguy cơ khi các chuỗi cung ứng của họ quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp đã chững lại khi COVID-19 bùng phát từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng dịch bệnh thực chất chỉ là chất xúc tác cho một diễn biến đã bắt đầu từ lâu, ngay cả trước khi thương chiến Mỹ - Trung bùng nổ.
"Việc di dời chuỗi sản xuất khỏi Trung Quốc thực chất bắt đầu từ trước thương chiến Mỹ - Trung, khi mức lương tại Trung Quốc đã tăng sau một khoảng thời gian. Cả cuộc chiến thương mại và đại dịch hiện nay đều đang kích thích quá trình vốn đã khởi động này" - ông Stephen Olson, cựu chuyên gia đàm phán của Mỹ và hiện đang làm việc tại Quỹ Hinrich Foundation, trả lời Tuổi Trẻ ngày 8-5.
Bên cạnh xu hướng vốn có, ông Olson cho rằng tác động từ dịch COVID-19 sẽ rõ ràng hơn ở một số lĩnh vực cụ thể như dịch vụ y tế, thiết bị bảo hộ và dược phẩm.
Nhật Bản không phải quốc gia duy nhất hành động trong thời gian gần đây. Hồi tháng 4, Chính phủ Ấn Độ đã liên hệ với hơn 1.000 doanh nghiệp để đề nghị các hỗ trợ hấp dẫn đối với những nhà sản xuất muốn rời khỏi Trung Quốc, theo Economic Times.
Trong đó, Ấn Độ ưu tiên các nhà cung cấp thiết bị y tế, chế biến thực phẩm, vải, thuộc da và sản xuất phụ tùng xe hơi. Economic Times dẫn nguồn tin cho biết số doanh nghiệp này bao trùm tổng cộng 550 loại hàng hóa.
Trao đổi với Tuổi Trẻ về vấn đề trên, GS Julien Chaisse tại Trường luật thuộc Đại học Hong Kong, một chuyên gia về vấn đề thương mại, cho rằng dịch bệnh COVID-19 chỉ là một “tác nhân tạm thời”. “Động cơ thật sự khiến các doanh nghiệp rút khỏi Trung Quốc là các loại thuế quan và sự bất an đến từ cuộc chiến thương mại.
Kể từ khi chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc bùng nổ khoảng một năm rưỡi về trước, nhiều doanh nghiệp đã chuyển hoạt động sản xuất sang Philippines, Đài Loan và Việt Nam. Một số công ty Mỹ sản xuất tại Trung Quốc đã xoay xở để gánh thuế quan cao hơn hoặc tăng giá, nhưng ngày càng nhiều doanh nghiệp tìm kiếm nơi khác” - ông Chaisse nhận định.
Theo vị giáo sư này, tới nay hơn 50 công ty đa quốc gia, cả trong và ngoài Trung Quốc, đã quyết định hoặc lên kế hoạch di dời toàn bộ hoặc một phần hoạt động sản xuất.
Cơ hội cho Việt Nam
Xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn cũng đem lại cơ hội mới cho nhiều quốc gia. Dù có những lợi thế nhất định, Việt Nam vẫn chỉ là một trong những tay đua trong cuộc chạy đua thu hút đầu tư ngoại.
“Gần như chắc chắn một số sẽ rời khỏi Trung Quốc nhưng cũng chỉ ở mức giới hạn vì Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các quốc gia khác. Câu hỏi lớn nhất đối với Việt Nam là làm sao xây dựng được năng lực hiệu quả để thu hút những chuyển dịch đó của chuỗi cung ứng” - ông Olson đặt vấn đề.
Theo ông Olson, để tối ưu hóa cơ hội trước mắt, Việt Nam cần cải thiện hạ tầng công nghệ cũng như kỹ năng của lực lượng lao động. Ông cho rằng sự chuyển dịch chuỗi sản xuất sẽ đem lại nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đáng kể cho Việt Nam.
“FDI mang lại cả những “tác dụng phụ” có lợi đối với doanh nghiệp nội. Tuy nhiên, Việt Nam cần đảm bảo FDI được sử dụng một cách bền vững. Điều đó có nghĩa là FDI không nên chỉ phục vụ mục đích tạo ra tăng trưởng kinh tế cân bằng, mà còn phải củng cố được nguồn vốn xã hội và hỗ trợ việc quản lý môi trường” - ông Olson lưu ý.
Theo GS Chaisse, bên cạnh việc lôi kéo đầu tư từ nước ngoài, Việt Nam cần chăm chút cho cả sự phát triển của nền công nghiệp nội địa. Ông cho rằng đây là điều rất quan trọng vì phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư ngoại là cách làm không bền vững.
Ông Chaisse cũng cho rằng Việt Nam nên nỗ lực thu hút những doanh nghiệp công nghệ tiên tiến như Google và Microsoft, đồng thời tận dụng tất cả lợi thế từ những hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký trong những năm qua, bao gồm Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).